Tất cả những gì tốt đẹp nhất của dân tộc ta trong hàng nghìn năm lịch sử đều sống dậy, tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ hết trong cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đoàn đại biểu Anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc (11/11/1965)
Chủ nghĩa yêu nước - giá trị hàng đầu, nhất quán, sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, xuất hiện từ thời cổ đại, phát triển qua các giai đoạn lịch sử đến thời đại Hồ Chí Minh - là một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam, là “đạo”, là “đường” - hướng đi của dân tộc Việt Nam.
Từ cái nôi Văn Lang - Âu Lạc đến thời kỳ chống đô hộ Hán, Đường, qua kháng chiến chống xâm lược thế kỷ X - XVIII, đến thời đại mới dưới ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được Hồ Chí Minh phát kiến lại, mang nội dung và chất lượng mới, yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, trở thành một bộ phận của tinh thần quốc tế, được gắn kết nhuần nhuyễn và phát huy một cách hài hòa với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong toàn bộ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa yêu nước là thứ của quý, động lực tinh thần lớn nhất cho cách mạng, kháng chiến và xây dựng. Người khẳng định dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.
Hồ Chí Minh phát kiến lại chủ nghĩa yêu nước truyền thống không phải bằng lý luận thuần túy mà chủ yếu bằng cuộc đấu tranh cách mạng. Người sử dụng liên tục chủ nghĩa yêu nước như một vũ khí và rèn luyện vũ khí ấy ngày càng sắc bén. Hồ Chí Minh chỉ rõ chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã nhiều năm chịu đựng gian khổ, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, để xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới.
Là một quốc gia xuất hiện sớm với tên gọi Văn Lang, lịch sử Việt Nam cơ bản là lịch sử của những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược của những kẻ thù lớn mạnh hơn chúng ta nhiều lần. Đặc điểm lịch sử Việt Nam in đậm dấu ấn của khí phách anh hùng Việt Nam từ Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, đến Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, mọi cuộc xâm lược của các triều đại lớn Trung Quốc đều bị nhân dân ta đánh bại.
Tổng kết những cuộc khởi nghĩa và đấu tranh anh hùng của nhân dân ta chống xâm lược phong kiến Trung Quốc, Hồ Chí Minh cho rằng nhờ ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức mạnh, dân ta không cam chịu nô lệ, tỉnh ngộ, đoàn kết, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đứng lên đánh đuổi tụi áp bức mình đi.
Sau gần một trăm năm (1858-1954), nhân dân ta đánh bại Pháp, Nhật và chế độ phong kiến, phá bỏ xiềng xích thực dân gần 100 năm để gây nên nước Việt Nam độc lập; đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa. Dân tộc ta được tự do, độc lập và hoàn toàn có quyền hưởng tự do, độc lập.
Khi thực dân Pháp trở lại cướp nước ta một lần nữa, lời hịch của ông cha ta tự ngàn xưa vang vọng trong lời hiệu triệu của Hồ Chí Minh “chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Chúng ta phải đứng lên. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Chúng ta đã làm nên “thiên sử vàng” Điện Biên Phủ, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Hơn 20 năm tiếp theo, đương đầu với đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh tỏ rõ hào khí Việt Nam, khảng khái tuyên bố Mỹ có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. Người nhấn mạnh chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
Khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam là khí phách của một dân tộc đất không rộng, người không đông, vũ khí súng đạn không nhiều, không lớn, đối mặt với những cường quốc to lớn hơn mình gấp nhiều chục lần. Khí phách đó cho thấy một dân tộc đặt lên hàng đầu tâm lý độc lập tự cường; luân lý biết hy sinh lợi ích cá nhân mình, làm lợi cho quần chúng. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh kéo dài hàng nghìn năm đã nhào nặn tâm hồn Việt Nam, đạo lý Việt Nam. Tự hào hai tiếng “Việt Nam”, một dân tộc rắn rỏi, kiên cường, có tinh thần độc lập tự chủ, lạc quan, sáng tạo, thương người, chính nghĩa, đại nghĩa, trước “sóng cả không ngã tay chèo”.
Những giá trị đó kết tinh, sống dậy trong Hồ Chí Minh, phát sáng hào quang. Người là biểu tượng rực rỡ của cuộc chiến đấu giành độc lập tự do; là mẫu mực xuất chúng về mọi đức tính nhân đạo. Đảng ta khẳng định Hồ Chí Minh là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta.
Hồ Chí Minh tượng trưng cho tinh thần và khí phách của một dân tộc “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”; một dân tộc tự lực cánh sinh, quyết chiến đấu đến cùng, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt với về nhiệt tình, chí khí cách mạng kiên cường, khí phách anh hùng, tinh thần độc lập tự do, một lòng kiên trì cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ, lâu dài, phức tạp, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; thắng không kiêu, bại không nản. Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ phẩm chất của một nhà yêu nước chân chính vĩ đại, một chiến sĩ cách mạng vô sản dũng cảm kiên cường, triệt để, suốt đời hy sinh phấn đấu với niềm tin và tư thế của một người chiến thắng. Đó là khí phách và khát vọng của người mang sứ mệnh lịch sử là đánh đổ xã hội cũ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng xã hội mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy dân làm gốc.
Nguyễn Trãi viết: “Lấy đại nghĩa thắng hùng tàn/Dùng chí nhân thay cường bạo/Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới/Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt tối rồi lại minh/Để mở nền muôn thuở thái bình/Để rửa nỗi nghìn thu sỉ nhục”. Đó là một khía cạnh đặc trưng thuộc tinh hoa và khí phách của dân tộc Việt Nam - tinh hoa và khí phách về khát vọng đổi mới, phát triển bền vững và thái bình.
Hồ Chí Minh tiếp nối, phát triển, nâng cao khát vọng đó với tâm nguyện đến ngày thắng lợi sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, hơn mười ngày nay. Người viết trong Di chúc: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Thế giới khẳng định Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cộng sản theo chủ nghĩa quốc tế, đồng thời tượng trưng cho dân tộc mình, một dân tộc trải qua hàng nghìn năm lịch sử, từ thời cổ trung đại đến cận hiện đại, đã tiến hành liên tục các cuộc đấu tranh anh hùng để bênh vực những giá trị đạo đức cao cả, chân chính không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà cả với nhân loại, đó là quyền sống, quyền độc lập, tự do, hạnh phúc, công lý cho mọi dân tộc và mọi người, bình đẳng giữa các dân tộc, kiến tạo một thế giới hòa bình.
Vĩnh biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định: “Người là tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam suốt bốn nghìn năm lịch sử. “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó là lời kêu gọi cứu nước khẩn thiết hiện nay của Tổ quốc, là lời hịch của ông cha ta vang vọng tự ngàn xưa, là nghĩa vụ thiêng liêng của chúng ta đối với muôn đời con cháu”.
Đánh giá và ghi nhận của Đảng ta là sự khái quát cao, cô đọng, súc tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu tượng cho chủ nghĩa yêu nước, khí phách anh hùng và khát vọng hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.
Sỹ Thành ( Theo Ban Tuyên giáo TW)