Song Lang là một bộ phim tâm lý xã hội lấy bối cảnh TP. Hồ Chí Minh vào giữa thập niên 80, kể về Dũng “Thiên Lôi” – một tay giang hồ đòi nợ thuê và Linh Phụng, kép tài danh của đoàn cải lương Thiên Lý.
Cuộc gặp gỡ định mệnh của hai chàng trai với hai cuộc sống tưởng như đối lập đã làm thay đổi cuộc đời của cả hai. Và diễn biến tiếp theo của kịch bản thì để khán giả… đến rạp thưởng thức tiếp vậy (cười).
Chọn đề tài “cải lương” đưa vào điện ảnh chắc hẳn là không phải dễ?
Kịch bản được hoàn thiện trong vòng một năm. Nhưng ý tưởng kịch bản đã được tôi và chị Minh Ngọc phác thảo từ 5 năm trước. Phần khó khăn nhất sau đó chính là việc tìm kiếm nhà đầu tư, vì gõ cửa ở đâu, tôi cũng bị từ chối với câu trả lời “phim này không có khán giả”.
Việc tìm kiếm bối cảnh cho phù hợp với thập niên 80 như là rạp hát cũng là một thách thức lớn khi các rạp hát xưa hầu như đã bị đập bỏ, xây mới hoặc xuống cấp trầm trọng. Về phần tư liệu, ngoài việc thập niên 80 là khoảng thời gian của cải lương mà tôi đã "tai nghe mắt thấy", tôi còn may mắn có sự hỗ trợ hết lòng từ các nghệ sĩ từng hoạt động trong khoảng thời gian đó.
Khó khăn xảy ra trong quá trình làm phim thì rất nhiều. Riêng phần ghi hình, chúng tôi phải quay đến 4 lần trong quá trình tổng cộng gần 8 tháng trời. Việc đó ảnh hưởng không nhỏ đến kinh phí, diễn viên, bối cảnh... Nhưng tôi tin rằng, Song Lang được Tổ Nghiệp phù hộ. Vì tất cả những thử thách mà chúng tôi phải đối mặt trong quá trình thực hiện bộ phim, sau cùng đều mang đến cho tôi những kết quả tốt hơn mong đợi ban đầu.
Anh có nghĩ rằng “Song Lang” là bước khởi đầu đầy mạo hiểm?
Nhìn vào thị trường phim Việt trong thời gian qua, gần như đa số là những phim làm với các công thức được xem là an toàn như phim hài, kinh dị, ngôn tình... nhưng phần lớn, kết quả phòng vé không như kỳ vọng, thậm chí nhiều trường hợp còn thất bại ê chề.
Nếu căn cứ theo đó thì tôi không nghĩ rằng, Song Lang là một bước đi mạo hiểm. Nhất là khi tôi và nhà sản xuất không thực hiện Song Lang với mục đích lập kỷ lục phòng vé. Chúng tôi thực hiện bộ phim với mong muốn đưa một món ăn mới lạ đến cho khán giả. Đây có thể là món ăn không hợp khẩu vị với tất cả mọi người, nhưng tôi có thể đảm bảo đây là một món ăn được làm với các “nguyên liệu” thuần Việt.
Cơ duyên nào đã đưa anh đến với cải lương và có một tình yêu mãnh liệt với bộ môn nghệ thuật truyền thống này như vậy?
Tôi mê các loại sân khấu cổ truyền từ bé: chèo, hát bội, ca trù, ca Huế, nhưng mê nhất vẫn là cải lương. Mê đến nỗi, gia đình sợ sẽ xao nhãng việc học nên cấm. Nhưng càng cấm, thì càng mê và ước mơ lớn lên sẽ theo đuổi bộ môn này. Tôi chưa bao giờ nghĩ giấc mơ đó sẽ là bộ phim điện ảnh đầu tay tại quê nhà mấy chục năm sau đó.
Hiện tại, tôi có một vài dự án điện ảnh nhưng đều thuộc dạng “mạo hiểm”. Hy vọng rằng, nếu Song Lang thành công về mặt doanh thu thì nó sẽ giúp các nhà sản xuất tự tin hơn, để thoát ra vòng luẩn quẩn của các nhà làm phim chạy theo phong trào, mà mạnh tay đầu tư vào những dự án phim mà họ cho là “mạo hiểm” hơn không chỉ của riêng tôi, mà của tất cả các nhà làm phim khác.
Cám ơn anh đã dành thời gian quý báu cho buổi trò chuyện này. Chúc cho "Song Lang" sẽ thành công!