Chuyên đề “Gốm Nam Bộ - Dấu ấn trăm năm” do Thư viện số Nguyễn An Ninh tổ chức, đã khắc họa dòng chảy của gốm trong chiều dài lịch sử - văn hóa phương Nam, với gốm Cây Mai, gốm Lái Thiêu, gốm Vĩnh Long…
Mỗi tác phẩm kể một câu chuyện
Nhắc đến gốm Sài Gòn, Tiến sĩ khảo cổ Nguyễn Thị Hậu nhớ ngay đến cuộc khai quật lò gốm đầu tiên chị được tham gia: đó là lò gốm Hưng Lợi (Quận 8, TP.HCM), vào năm 1998. “Từ những mảnh gốm vỡ như mắt lò, bầu lò, ống khói…, chúng tôi đã phục dựng quy trình sản xuất gốm, cũng như nhận diện được kỹ thuật làm gốm quan trọng mang dấu tích của gốm Sài Gòn” - chị chia sẻ. Năm ấy, suốt 6 tháng ròng, các nhà khảo cổ đã đi tìm dấu tích Sài Gòn xưa trên những mảnh gốm có niên đại từ thế kỷ XIX, nằm ven kênh Ruột Ngựa. Di tích xóm Lò Gốm không chỉ nằm ở khu vực Quận 8 mà còn trải dọc Quận 6, Quận 11…

Một số tác phẩm gốm được trưng bày tại triển lãm chuyên đề “Gốm Nam Bộ - Dấu ấn trăm năm” - Nguồn ảnh: Thư viện số Nguyễn An Ninh - chuyên đề “Nam Bộ”
Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng, địa danh xóm Lò Gốm được ghi chép trong Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức, 1772) và xuất hiện trên bản đồ sớm nhất của đất Gia Định (1815). Trong bài phú Cổ Gia Định phong cảnh vịnh (được cho là của tác giả Ngô Nhân Tịnh, có ý kiến khác cho rằng đây là bài phú khuyết danh) có đôi dòng về xóm Lò Gốm: “Cắc cóc chợ Lò Rèn/ Nghe chạc chạc nhà Ban đánh búa/ Lạ lùng xóm Lò Gốm/ Chơn vò vò như Bàn Cổ xây trời…”.
Gốm Nam Bộ đã theo chân lưu dân xứ Quảng vào phương Nam (gốm đất nung, với những sản phẩm gia dụng) và các dòng gốm từ Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến (gốm sành sứ, với các sản phẩm có giá trị mỹ thuật cao)… Không chỉ là tác phẩm được điêu khắc trang trí ở các cơ sở thờ tự; đi vào văn học - văn hóa dân gian và trở thành giá trị tinh thần của các cộng đồng cư dân, gốm còn có mặt trong mọi khía cạnh của đời sống: ấm trà nhỏ đãi khách, bình trà lớn cho nông dân mang ra đồng; lu, khạp… đựng nước mưa hay chứa mắm; chậu trồng cây… Khu vực lấy đất làm gốm trở thành ao nuôi cá, cứ thế những “xóm lò gốm” quần tụ và vận hành bằng nguồn nguyên liệu tại chỗ (đất, nước, củi) với những đôi bàn tay cần mẫn và tài hoa của người thợ gốm.
Hồn đất - hồn người trên gốm
Trong dòng chảy của lịch sử đô thị Sài Gòn nói riêng và vùng đất Nam Bộ nói chung, gốm Cây Mai như một giá trị văn hóa vật thể, phát triển rực rỡ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng, những nét đặc trưng của dòng gốm này là hình thức đắp nổi (thay vì vẽ men như các dòng gốm khác). Các họa tiết, hoa văn như hoa lá, chim thú, linh vật… trên các sản phẩm gốm Cây Mai được nặn thủ công bằng đất sét, đắp nổi lên thân gốm và tráng men. Còn theo nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng, kỹ thuật làm gốm này không chỉ mang lại giá trị mỹ thuật cao cho sản phẩm mà còn thể hiện tín ngưỡng và ước vọng phồn vinh của cộng đồng cư dân đô thị.

Hình ảnh lò gốm xưa ở Sài Gòn
Với gốm Lái Thiêu, các hoa văn/hình vẽ có thể là những thông điệp, ẩn dụ về văn hóa, tín ngưỡng của con người vùng đất ấy. Ví dụ các họa tiết hình hoa, chữ viết, loài vật… khắc trên thân gốm có thể mang ý nghĩa là những lời chúc lành, mong ước bình an, đời sống sum vầy. Còn gốm Biên Hòa (hay gốm Đồng Nai) lại là một trường phái mỹ nghệ ảnh hưởng phong cách phương Tây và phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 1923-1960. Vĩnh Long được mệnh danh là “vương quốc gốm đỏ”, bắt đầu từ nghề làm gạch hình thành dọc bờ sông Cổ Chiên hàng trăm năm trước.
Mỗi vùng đất với thổ nhưỡng và nguồn nguyên liệu khác nhau đã tạo nên những sản phẩm gốm khác nhau. Điều đó cũng làm nên những giá trị đặc trưng, không thể thay thế của gốm Sài Gòn, gốm Cây Mai, gốm Lái Thiêu, gốm Vĩnh Long…
Họa sĩ Lê Triều Điển nói rằng, một trong những đặc trưng của gốm Vĩnh Long là được nung bằng trấu - nguồn nguyên liệu tại chỗ của vùng đồng bằng trù phú. Đất đỏ có phèn đặc trưng của miền sông nước tạo ra những sản phẩm gốm không có men nhưng lại mang nét độc đáo riêng của gốm Vĩnh Long. Thời hoàng kim, có khoảng hơn 3.000 lò gạch hoạt động tại huyện Long Hồ và Mang Thít (cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI). Hiện nay, chỉ còn khoảng 800 lò hoạt động, những tháp lò gạch đỏ nổi bật trở thành điểm đến du lịch nổi tiếng của vùng đất này.
Trải qua hành trình trăm năm cùng những sự đổi thay, biến động trên mảnh đất phương Nam, gốm Nam Bộ đã có một dòng chảy riêng với những bước thăng trầm và chuyển mình mạnh mẽ. Cùng với đó là sự nỗ lực không ngừng của những người thợ gốm, những họa sĩ, các chuyên gia văn hóa đã cùng nhau góp phần bảo tồn, lan tỏa giá trị gốm Nam Bộ với những dấu tích chứa đựng một phần hồn đất, hồn người của văn hóa phương Nam.